Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tài liệu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tài liệu. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 29 tháng 5, 2020

Người Hung Nô: Từ bộ lạc du mục đến đế chế hùng mạnh uy hiếp Trung Hoa

Là bộ lạc du mục sống rải rác ở những vùng sa mạc hoang vu phía Bắc, song người Hung Nô từng có thời lập nên một đế chế hùng mạnh nhờ sự lãnh đạo của một vị thủ lĩnh kiệt xuất.


Hung Nô là tên gọi chung chỉ các bộ lạc du mục ở khu vực Trung Á thời kỳ cổ đại. Địa bàn sống của họ chủ yếu tại các khu vực thuộc miền nam Siberia, miền tây Mãn Châu và các tỉnh, khu tự trị ngày nay của Trung Quốc là Nội Mông, Cam Túc và Tân Cương.

Nguồn gốc dân tộc này cho đến nay vẫn là một điều bí ẩn, do phần lớn những gì chúng ta biết được về người Hung Nô chủ yếu đến từ các tư liệu lịch sử bằng tiếng Hán. Sử ký của Tư Mã Thiên thì cho rằng người Hung Nô là các hậu duệ của con trai của vua Kiệt – vị vua cuối cùng của nhà Hạ – triều đại đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Tuy nhiên, do những khác biệt và xung đột nội bộ nên họ đã di tản lên cư trú ở những vùng thảo nguyên phía bắc:

Suốt thời Xuân Thu – Chiến Quốc, Hung Nô vẫn là những bộ lạc liên kết lỏng lẻo với nhau, dưới sự cai trị của các tộc trưởng gọi là thiền vu. Sau khi nhất thống Trung Nguyên, Tần Thủy Hoàng đã gấp rút xây dựng Vạn Lý Trường Thành, đồng thời cử các tướng lĩnh bắc phạt, đẩy lui các bộ lạc Hung Nô đến tận các vùng lãnh thổ xa xôi, sát biên giới với nước Nga hiện nay.

Trong hơn một thập kỷ, người Hung Nô không hề gây ra bất kỳ mối đe dọa nào đối với phương Nam. Nhưng điều này đã thực sự thay đổi khi các bộ lạc Hung Nô ở phương Bắc được thu về một mối dưới sự lãnh đạo của Mặc Đốn – vị thiền vu vĩ đại nhất trong lịch sử.

Thống lĩnh Hung Nô

Mặc Đốn thiền vu (Modu Chanyu, sinh vào khoảng 234 trước CN) là con trai cả của thiền vu Đầu Mạn. Ngay từ nhỏ, Mặc Đốn đã sớm thể hiện tư chất gan dạ và dũng cảm, được cho là người sẽ kế vị cha mình trong tương lai. Song thiền vu Đầu Mạn (Touman Chanyu), vì sủng ái một người vợ bé và con trai của người này, nên đã rắp tâm phế trưởng lập thứ bằng việc đưa Mặc Đốn đến làm con tin cho bộ tộc Nguyệt Chi.

Theo sử liệu từ Trung Quốc, Đầu Mạn đã phát động chiến tranh với bộ tộc Nguyệt Chi để trừ khử chính con trai của mình. Nhưng do đã dự cảm từ trước về một điều chẳng lành, Mặc Đốn đã tranh thủ vào đúng đêm Đầu Mạn tấn công vào lãnh thổ của Nguyệt Chi để đánh cắp một con ngựa và chạy về Hung Nô.

Đầu Mạn thiền vu thấy Mặc Đốn đột nhiên trở về thì như ngồi trên đống lửa, nhưng ngoài mặt, ông vẫn khen con trai mình dũng cảm và giao cho chỉ huy một đội kỵ binh 10.000 quân. Mặc Đốn hiểu rõ mưu gian của cha mình nhưng vẫn tỏ ra không biết gì.

Nắm được binh lực trong tay, Mặc Đốn dùng kỷ luật thép để huấn luyện đội kỵ binh trở thành những chiến binh trung thành, răm rắp tuân theo lệnh thủ lĩnh. Ông sáng tạo ra một tấm lệnh bài gọi là “minh đích”, và ra lệnh cho quân sĩ hễ chỉ “minh đích” vào đâu thì phải nhất loạt bắn tên vào đó, sai lệnh sẽ chém không tha.

“Mặc Đốn lấy minh đích tự bắn con ngựa tốt của mình, tả hữu có kẻ không dám bắn, Mặc Đốn bèn chém kẻ không bắn ngựa tốt. Được mấy chốc, lại lấy minh đích tự bắn người vợ yêu của mình, tả hữu có vẻ sợ, không dám bắn, Mặc Đốn lại chém kẻ đó. Được mấy chốc, Mặc Đốn ra săn, lấy minh đích bắn con ngựa tốt của thiền vu, tả hữu đều bắn con ngựa đó.”

Tư Mã Thiên – Sử Ký

Một lần nọ, Đầu Mạn thiền vu rủ con trai đi săn bắn bên ngoài. Chớp được dịp ngàn vàng để ra tay, Mặc Đốn mang theo thủ hạ bám theo sau, và chờ đúng thời cơ để ra lệnh “minh đích” bắn vào Đầu Mạn thiền vu. Chỉ trong chớp mắt, Đầu Mạn Thiền Vu chỉ kịp thét lên một tiếng thì toàn thân đã dính đầy tên chi chít như lông nhím. Hạ thủ được cha mình, Mặc Đốn ngay lập tức giành lấy ngôi thiền vu, trở thành bá chủ Hung Nô thống lĩnh toàn bộ khu vực phía bắc rộng lớn.

Chinh phạt thảo nguyên

Biết tin Mặc Đốn lên ngôi, bộ tộc Đông Hồ muốn dò xét thực lực của Hung Nô thế nào, nên đã liên tục phái xứ giả sang bắt Mặc Đốn phải nộp nhiều cống phẩm quý như ngựa chạy ngàn dặm từ thời thiền vu Đầu Mạn, đến cả các vợ bé của mình. Mặc Đốn bề ngoài tỏ ra nhún nhường, quy phục những yêu sách trên, song đã ngấm ngầm chuẩn bị lực, chuẩn bị chinh phạt Đông Hồ.

Được một thời gian, Đông Hồ lại sai sứ đến xin được lấy một khoảng đất không người ở, rộng ngàn dặm ở giữa lãnh thổ Hung Nô. Có được cái cớ để động binh, Mặc Đốn bèn họp các bầy tôi, tuyên bố: “Đất là cái gốc của nước, sao lại cho nó!” và chính thức phát động chiến tranh.

Người Đông Hồ lúc trước coi nhẹ Mặc Đốn nên chủ quan, không kịp sắm sửa binh mã. Nhờ đó, đội quân thiện chiến của Hung Nô dễ dàng đại phá Đông Hồ, bắt được vô số người và gia súc đem về nước.

Thừa thắng, Mặc Đốn tiếp tục đem quân chinh phạt và đánh bại các bộ tộc Nguyệt Chi, Lâu Phiền ở phía Nam, thu hồi lại hết phần lãnh thổ mà nhà Tần cưỡng chiếm trước kia, thậm chí đánh đến tận phần lãnh thổ phía Nam sông Hoàng Hà, sát với lãnh thổ của người Hán. Người Hán bấy giờ đang lâm vào cuộc nội chiến giữa Hạng Vũ và Lưu Bang, nên hoàn toàn bất lực trước sự tung hoành của quân Hung Nô.

Cho đến năm 203 TCN, Mặc Đốn đã chinh phạt hoặc thu phục toàn bộ các bộ lạc du mục ở phương Bắc dưới quyền lãnh đạo của Hung Nô, mở rộng lãnh thổ của mình đến một mức độ lớn chưa từng có từ trước đến nay. Người Hung Nô sau 1.000 năm lang bạt giờ đã hình thành nên một đế chế hùng mạnh, trở thành đối thủ của các triều đại Trung Hoa suốt một thời gian dài sau đó, thậm chí có lúc còn lấn lướt, uy hiếp.

Theo DÂN VIỆT
0

Thứ Bảy, 9 tháng 5, 2020

Bí ẩn hiện tượng "ma cà rồng" ngoài đời thực

Đi tìm lời giải liệu bá tước Dracula có thực hay không...

Từ trước tới nay, người ta luôn nghĩ hình ảnh của bá tước Dracula hay ma cà rồng chỉ là tưởng tượng, hư cấu. Nhưng sự thật, chúng được xây dựng dựa trên những trường hợp ngoài đời thực, mắc phải những hội chứng kì lạ như thèm máu, sợ ánh sáng Mặt trời…

Những ma cà rồng ngoài đời thực…

Câu chuyện đầu tiên xảy ra vào những năm 1940 tại đảo quốc sương mù - Anh. Người đàn ông 29 tuổi, tên Neville Heath đã làm chấn động giới truyền thông nước này bởi tội ác hút máu người của mình.


Vốn là một sĩ quan quân đội, nhưng không hiểu vì lý do gì mà Neville Heath bỗng trở nên... bệnh hoạn. Y lừa một cô gái trẻ vào khách sạn, hãm hiếp dã man và sát hại nạn nhân bằng những dụng cụ kim loại cùn. Trên thi thể nạn nhân, người ta phát hiện một số bộ phận cơ thể bị cắn đứt bằng răng.


Sau khi gây án, Neville Heath bỏ trốn và chỉ hai tuần sau, hắn lại gây án tương tự. Neville sớm bị bắt và với tội danh của mình, hắn bị kết án tử hình cùng năm. Giới truyền thông khi đó đặt cho Neville cái tên “quý ông Ma cà rồng”.

Câu chuyện thứ hai nói về một chàng trai trẻ Allan Menzies (22 tuổi). Bộ phim yêu thích của anh chàng là Queen of the Damned - một bộ phim nói về ma cà rồng. Allan xem phim này ít nhất hơn 100 lần và y thực sự bị ấn tượng bởi nhân vật nữ chính - nữ ma cà rồng Akasha.


Chàng trai Allan Menzies.

Thomas McKendrick là bạn thân của Allan Menzies, hai người cùng nhau xem phim và có vẻ bị ám ảnh rất nặng về hình tượng ma cà rồng.

Riêng Allan, có những lúc cậu ta đã la hét, rên rỉ như ma cà rồng thật. Và rồi điều gì đến cũng phải đến, ngày 11/12/2002, Thomas McKendrick mất tích, đương nhiên nơi cuối cùng mà anh ta tới chính là chỗ của Allan Menzies.


Sau nhiều biện pháp điều tra, cuối cùng cảnh sát cũng bắt được kẻ sát nhân, đó chính là Allan Menzies. Tại phiên tòa, anh chàng thừa nhận đã ăn một phần đầu và uống máu bạn mình.

Allan giải thích rằng, anh ta đã lựa chọn một cuộc sống khác thuộc về ma cà rồng. Anh thường xuyên nghe đi nghe lại ca khúc trong bộ phim yêu thích. Mỗi khi nghe xong, Allan đều muốn ra ngoài và giết người hút máu. Anh giết Thomas vì cậu ta dám xúc phạm nhân vật yêu thích Akasha của mình.


Câu chuyện khác mới được phát hiện cách đây 3 năm, đó là anh em ma cà rồng Simon và Geogre Cullen. Hai cậu bé này không hề biết tới đổ mồ hôi, cả hai đều mọc ra những chiếc răng nanh vô cùng đáng sợ và đều kị ánh sáng vô cùng. Ngay từ khi còn bé, cậu anh Simon đã suýt chết vì bị cảm do cơ thể có nhiệt độ quá cao.


Thế nên, mỗi khi đi ra ngoài trời nắng, Simon và Geogre đều phải bôi kem chống nắng, đội mũ rất đầy đủ. Thật may là hai anh em này hoàn toàn bình thường trong nhân cách, không mang dấu hiệu gì về bản tính hút máu đáng sợ của ma cà rồng.

Lý giải của khoa học

Các nhà khoa học không ngừng nghiên cứu và đã giải thích được phần lớn các trường hợp như trên. Có thể chia thành 2 nguyên nhân chính gây nên căn bệnh ma cà rồng theo lý thuyết theo xã hội học và y học.


Ở trường hợp của hai anh em Simon và Geogre Cullen, họ mắc phải hội chứng đột biến Hypohidrotic Ectodermal Dysplasia (HED). Theo Dailymail đưa tin, có 7.000 người mắc phải bệnh này trên toàn thế giới.

Biểu hiện của căn bệnh này chính là người bệnh không toát được mồ hôi, sợ ánh sáng Mặt trời, răng mọc không đầy đủ, mọc răng nanh nhọn hoắt như ma cà rồng.

Một căn bệnh khác cũng được gọi là “hội chứng ma cà rồng”, đó là hội chứng Renfield. Nói nôm na đây là hiện tượng bị ám ảnh quá lớn về ma cà rồng giống như trong hai câu chuyện đầu tiên. Hội chứng Renfield xảy ra phần lớn và nghiêm trọng ở nam giới do giới này có xu hướng sử dụng chất kích thích như rượu, thuốc lá, ma túy cao.


Người mắc phải hội chứng nói trên thèm máu xuất phát từ niềm tin uống máu sẽ tăng cường sức mạnh và sự sống bất tử. Giới chuyên gia cho rằng, niềm tin ấy có thể hình thành từ một sự kiện thời thơ ấu khiến việc ăn máu trở nên thú vị hoặc do ám ảnh quá lớn về văn hóa ma cà rồng. Nó phát triển dần dần và gần như bùng nổ ở tuổi dậy thì, đem lại khoái cảm như quan hệ tình dục vậy.


Hậu quả của nó vô cùng khôn lường. Người mắc hội chứng này trở nên kích động, lúc nào cũng thèm khát máu tươi, không chỉ uống máu của chính bản thân mình mà thậm chí dễ gây ra những hành vi phạm tội như giết người. Hiện nay, các nhà khoa học vẫn đang đau đầu trong bài toán chữa trị căn bệnh nêu trên.

Nguồn: https://kenh14.vn/kham-pha/bi-an-hien-tuong-ma-ca-rong-ngoai-doi-thuc-2013215121354881.chn
0

Thứ Ba, 5 tháng 5, 2020

Uẩn khúc Hoàng đế Quang Trung cầu hôn công chúa nhà Thanh

Một số tài liệu lịch sử xác nhận rằng, vua Quang Trung đã sai sứ thần tới Đại Thanh cầu hôn công chúa – con gái được cưng chiều nhất của hoàng đế Càn Long. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu hiện nay lại phủ nhận điều này.


Thực hư cuộc cầu hôn giữa nhà Tây Sơn với nhà Thanh là như thế nào? Sách Hoàng Lê nhất thông chí chép rằng: “Vua Quang Trung sau khi quyết định đánh Trung Quốc, bèn sai bầy tôi là Chiêu Viễn Vũ Văn Dũng sang nhà Thanh dâng biểu cầu hôn và đòi lại đất hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây”. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện cũng ghi: “Năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung sai làm biểu văn sang nhà Thanh cầu hôn để dò ý vua Thanh và cũng để mượn cớ gây mối binh đao, nhưng vua bị bệnh không đi được”.

Theo hai tài liệu trên, việc Quang Trung xin cưới một công chúa của Càn Long mới chỉ trong dự định của một ý đồ liên quan đến vận nước của hai bên. Vua mong muốn bành trướng lãnh thổ Ðại Nam về phương Bắc và bằng mọi cách đòi lại cho được 2 tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây – vốn thuộc nước Nam Việt thời Triệu Ðà (năm 207 trước Tây lịch), mà nhà Hán đã thôn tính. Sắc mệnh sai sứ thần sang nhà Thanh cầu hôn Vào tháng 4 âm lịch năm 1791, vua Quang Trung gửi một sắc mệnh cho Chiêu Viễn Vũ Văn Dũng, có nội dung như sau: “Sắc Hải Dương Chiêu Viễn Đại đô đốc Đại tướng quân Dực vận công thần Vũ Quốc Công tiên gia lĩnh Bắc sứ kiêm toàn ứng tấu thỉnh Đông, Tây lưỡng Quảng dĩ khuy kỳ tâm, công chúa nhất vị dĩ kích kỳ nộ. Thận chi! Thận chi! Kỳ dụng binh hình thế tận tại thử hành. Tha nhất tiền phong, Khanh kỳ nhân dã, khâm tai sắc mệnh. Quang Trung tứ niên, tứ nguyệt, thập ngũ nhật”.

Tạm dịch:

“Sắc sai Hải Dương, Chiêu Viễn Đại đô đốc Đại tướng quân Dực vận công thần Vũ Quốc Công được tiên phong làm Chánh sứ đi sứ nhà Thanh, kiêm lãnh toàn quyền trong việc tâu thưa để xin lại đất hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây để dò ý và cầu hôn công chúa để khiêu khích tự ái vua Thanh. Cẩn thận! Cẩn thận! Hình thế dụng binh là ở chuyến này cả. Ngày kia làm tiên phong chính là khanh. Sắc mệnh nhà vua. Ngày rằm tháng 4 năm Quang Trung thứ 4 (1791).

Như vậy, đoàn sứ của Vũ Văn Dũng lên đường sang Đại Thanh để bệ kiến vua Càn Long hai việc: xin cầu hôn và xin đất đóng đô. Thực chất, theo một số nhà nghiên cứu hiện nay, đó chỉ là cái cớ vì thực tâm, vua Quang Trung muốn dụng binh đánh Trung Quốc và Vũ Văn Dũng chính là vị tướng tiền phong trong tương lai.

Càn Long chuẩn thỉnh cầu… Quang Trung băng hà

Sau khi sứ thần Vũ Văn Dũng dâng tấu xin Càn Long ban cho hai yêu cầu nói trên, vua nhà Thanh đã chuẩn y lời cầu hôn của hoàng đế Quang Trung, sai bộ Lễ sửa soạn nghi thức cho việc cưới gả, định ngày cho công chúa sang nước Nam. Còn việc xin lại hai tỉnh, Càn Long ngoài mặt đồng ý, nhưng thực tế chỉ muốn trao cho Quảng Tây làm đất đóng đô, coi như “của hồi môn” cho con gái “rượu”. Tuy nhiên, ở đời mấy ai học được chữ ngờ! Chỉ sau đó mấy hôm, Vũ Văn Dũng nhận được tin chẳng lành là vua Quang Trung đột ngột băng hà. Mọi việc trở nên dang dở… Lúc đó, Vũ Văn Dũng đã làm bài thơ viếng:

Năm năm dấy nghiệp tự thân nông
Thời trước thời sau khó sánh cùng
Trời để vua ta thêm chục tuổi
Anh hùng Đường, Tống hết khoe hùng.


Vua Càn Long cũng thảo một bài thơ viếng hoàng đế Quang Trung. Sứ nhà Thanh đã đến tận mộ ông ở Linh Đường (mộ giả) thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội) để viếng. Cho đến nay, thời điểm mất của vua Quang Trung vẫn được các tài liệu cổ ghi khác nhau. Sách Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn ghi ông mất tháng 7 âm lịch năm 1792. Hoàng Lê nhất thống chí chép ông mất tháng 8 âm lịch năm 1792. Theo lý giải của Hoàng Xuân Hãn trong La Sơn phu tử, cả hai sách ghi đều không sai. Quang Trung mất vào khoảng 11 h đêm ngày 29 tháng 7 âm lịch, khoảng đó là giờ tý, nghĩa là bắt đầu được tính sang hôm sau; mà tháng 7 năm đó là tháng thiếu, ngày 29 là ngày cuối tháng, nên sau 11h đêm đã chuyển sang tháng 8. Theo Hoàng Xuân Hãn: “Ghi tháng 7 hay tháng 8 thực ra chỉ chênh nhau khoảng nửa giờ”.

Ngay sau khi đại phá quân Thanh ở trận Ngọc Hồi – Đống Đa, vua Quang Trung tìm cách xóa bỏ thù hằn bằng việc chiêu hàng, nuôi dưỡng hàng vạn tù binh nhà Thanh và thu dọn, cúng tế chiêu hồn quân Thanh; thực thi chính sách hòa giải với cường quốc phương Bắc và triều cống, xin phong vương. Bằng một kế sách ngoại giao khôn khéo, mua chuộc được các cận thần nhà Thanh (Phúc Khang An, Hoà Thân…), Nguyễn Huệ đã được vua Thanh chấp nhận cầu phong để nhà Tây Sơn chính thức thay thế nhà Lê làm chủ Đại Việt.


Theo Đất Việt Online
0

Chủ Nhật, 3 tháng 5, 2020

Những hình ảnh ít người biết về đường Trường Sơn huyền thoại

Cùng nhìn lại một thời hoa lửa trên đường Trường Sơn qua loạt ảnh mới được giới thiệu tới công chúng trong triển lãm chuyên đề về đường Trường Sơn ở Bảo tàng TP HCM.

Hình ảnh chụp lại từ Bảo tàng TP HCM.


Dàn xe tải của Đại đội 9 – Bộ đội Vận tải anh hùng, một trong những đơn vị xe cơ giới đầu tiên vượt Trường Sơn.



Các chiến sĩ công binh thuộc Tiểu đoàn 25, Binh trạm 31, trực hướng dẫn và phân luồng xe tại ngã ba thuộc Km 0 trục đường tránh Bắc Xiêng Khoảng đi Xóm Péng, đảm bảo cho chiến dịch vận tải trên đường Trường Sơn, tháng 11/1968.


Để tránh những điểm đánh tập trung của địch, Bộ đội Trường Sơn bí mật, bất ngờ mở hàng nghìn km đường kín (đường K) cho xe chạy ban ngày, đẩy nhanh tốc độ vận chuyển nhân, vật lực cho chiến trường miền Nam.


Các đồng chí trong binh trạm đang báo cáo về cung đường sắp tới cho đồng chí Nguyễn Văn Linh và đồng chí Võ Văn Kiệt – lãnh đạo đoàn Trung ương Cục miền Nam trên đường vượt Trường Sơn ra Hà Nội họp, tháng 3/1973.


Bộ Tư lệnh Trường Sơn họp triển khai nhiệm vụ.


Đồng chí Trường Chinh chúc Tết Bộ đội Trường Sơn nhân dịp xuân Giáp Dần 1974.


Giây phút bình yên giữa núi rừng Trường Sơn.


Một trong những con tàu không số thuộc Đoàn M25 Hải quân thực hiện nhiệm vụ chi viện cho chiến trường bằng đường Hồ Chí Minh trên biển.


Cầu treo Bến Tắt, phía thượng nguồn sông Bến Hải – một công trình biểu tượng của đường Trường Sơn.


Chiến sĩ Đại đội 1 Ô tô vận tải anh hùng, Tiểu đoàn 54, Binh trạm 41, chống lầy, đảm bảo hàng hóa lưu thông trong chiến dịch vận chuyển mùa mưa năm 1970 tại đường 9 – Nam Lào (đoạn từ Nam Thà Khống, Bản Đông, Tà Cơn), tháng 6/1970.


Vũ khí, đạn dược được các chiến sĩ bộ đội chuyển đến tận tay các đơn vị chiến đấu trong Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào.


Đoàn xe vượt Trường Sơn chi viện cho chiến trường miền Nam với khẩu hiệu “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”.


Chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn thuộc Đại đội 1 Tiểu đội xe không kính hạ quyết tâm trước giờ lên đường.


Đơn vị hậu cần dùng xe đạp vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến trường và tải thương về tuyến sau.


Đội quân y trên đường Trường Sơn làm việc bất kể ngày đêm.


Kỹ sư và công nhân Cuba giúp Bộ đội Trường Sơn xây dựng đường, 1973.

Theo KIẾN THỨC
0

Thứ Năm, 30 tháng 4, 2020

Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn và sự giằng xé nội tâm sau cuộc chiến

Chân dung nhà tình báo huyền thoại Phạm Xuân Ẩn thời hậu chiến với đầy những giằng xé nội tâm, lòng khát khao yêu nước được dựng lại qua lời kể của nhà báo Nguyễn Đại Phượng.


Nhà báo Nguyễn Đại Phượng kể. Lan Anh ghi

Nhân ngày thống nhất đất nước 30/4, tôi muốn kể vài chi tiết về nhà tình báo huyền thoại Phạm Xuân Ẩn. Trong cuộc chiến tranh kéo dài 20 năm chúng ta có biết bao nhiêu anh hùng, bao nhiêu chiến sĩ tình báo vĩ đại. Nhưng ông Ẩn là một trong những nhà tình báo vĩ đại, gây ấn tượng nhiều nhất, và có thể nói hiện nay ông vẫn còn giữ nhiều bí mật mà Việt Nam và cả Mỹ vẫn đang tìm kiếm và giải mã. Ông là người cực kỳ hấp dẫn cho cả hai phía.

Cho đến nay đã có 5 cuốn sách viết về ông, trong đó, theo tôi, cuốn viết hay nhất, đưa ra nhiều hình ảnh, góc cạnh, phân tích được nhiều cá tính, đặc điểm con người Phạm Xuân Ẩn, chính là cuốn “Điệp viên hoàn hảo” của nhà sử học Mỹ Larry Berman.

Larry Berman hoàn thành cuốn sách năm 2007 và tôi may mắn có cơ duyên được mời dịch cuốn sách đấy. Lúc đó, tôi nghĩ là cuốn sách chỉ bán được vài nghìn cuốn là cùng nhưng không ngờ, theo chỗ tôi được biết, kể cả phần in chính thức lẫn phần in không chính thức, phải lên hơn 1 triệu bản. Dịp Tết 2007, VTV đánh giá cuốn sách là một sự kiện đặc biệt.

Sự giằng xé nội tâm sau cuộc chiến

Cuốn sách thành công vì nó vẽ chân dung Phạm Xuân Ẩn rất rõ nét, kể về cuộc đời người anh hùng tình báo huyền thoại, tuyệt vời. Ông là một người cộng sản, cho tới khi chết ông vẫn là một người cộng sản; ông là một nhà tình báo quân đội, tới khi chết ông vẫn là tình báo của quân đội.

Trong cuốn sách 484 trang mà tôi dịch ra tiếng Việt, cái hay nhất, theo tôi, chính là sự giằng xé trong nội tâm con người Phạm Xuân Ẩn sau giải phóng miền Nam. Lúc đó, ông cũng giống như một số cán bộ được đưa ra miền Bắc dự các lớp tập huấn của Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phòng tổ chức ở Hải Dương.

Ở đó, Phạm Xuân Ẩn được học rất nhiều về chủ nghĩa Marx – Lenin, lý luận chính trị, đường lối xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế, và ông thường tranh luận lại với các đồng chí của mình.

Là một nhà báo được đào tạo ở Mỹ, ông có hiểu biết khác về nền chính trị thế giới và tình hình thế giới. Sau khi về nước, ông thường xuyên làm việc với sĩ quan cao cấp trong chính quyền Sài Gòn và các quan chức cao cấp Mỹ. Bạn của ông là các Tổng thống chính quyền Sài Gòn, Đại sứ Mỹ, các những nhà tư bản, các quan chức, sĩ quan của chính quyền Sài Gòn, những người Mỹ…

Tư duy của ông được hình thành trên nền tảng đó. Ông hiểu tình hình thế giới trong nhãn quan của một nhà trí thức, một nhà tình báo cộng sản sống trong môi trường tư bản. Vì thế, khi đi tập huấn, những điều ông được nghe, được học có một số điểm trái với tư duy và những hiểu biết của ông.

Ông tranh luận lại với các đồng chí mình về nhiều vấn đề, những cái hợp lý, không hợp lý trong lý luận về chủ nghĩa xã hội. Tất nhiên, các đồng nghiệp của ông phản bác ông. Ông kể lại với Giáo sư Larry Berman: “Họ nói tôi có cách nghĩ giống người Mĩ, họ bảo là đồng chí có tư duy khác lắm, phải chỉnh sửa lại tư duy của đồng chí đi!”.

Phạm Xuân Ẩn cho biết, ông cảm thấy dằn vặt, đau đớn, khổ sở vô cùng. Họ là những người đồng chí từng sẵn sàng hy sinh thân họ vì ông, sẵn sàng chết để bảo vệ những tài liệu bí mật ông gửi ra cho trung ương ngoài Hà Nội, những người mà ông sẵn sàng chết vì họ. Ông nói: “Nhưng hồi đó là chiến tranh, sao bây giờ hòa bình rồi mà sống với các đồng chí của mình khó thế”.

Niềm trăn trở khôn nguôi

Phạm Xuân Ẩn giỏi cả nghề báo và tình báo. Cho tới cuối đời ông, tôi cảm thấy là ông yêu nghề báo hơn là nghề tình báo, chất báo trong con người ông đậm hơn chất tình báo, chất tình báo được đưa đẩy bởi tinh thần yêu nước của ông, còn ông sinh ra là để làm báo chứ không phải để làm tình báo. Phạm Xuân Ẩn cũng thích nghề làm báo hơn là nghề tình báo, đó là một trong những điều rất thú vị trong con người ông.

Là nhà tình báo Quân đội Nhân dân Việt Nam, như các đồng đội của mình, ông đã dành những tinh túy, sức lực cao nhất để giúp cho sự nghiệp giải phòng miền Nam, thống nhất đất nước. Quan điểm của ông là bất cứ kẻ ngoại xâm nào, dù đó là Tàu, Pháp, Nhật trước kia, hay Mĩ sang xâm lăng Việt Nam thì đều phải bị quét sạch ra khỏi bờ cõi Việt Nam để mang lại độc lập, tự do cho Việt Nam. Đó là tư tưởng yêu nước cực kỳ vĩ đại.

Khi miền Nam đã được giải phóng, đất nước được thống nhất, Phạm Xuân Ẩn trong lòng vẫn chưa yên vì Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn còn coi nhau như kẻ thù. Phải mất đến 20 năm sau 1975 hai nước mới bình thường hóa quan hệ về ngoại giao.

Ông khát khao Việt Nam – Hoa Kỳ trở thành bạn vì hơn ai hết, ông là một trong những người được đào tạo sớm nhất ở Mỹ và ông vẫn biết ơn người Mỹ đã đào tạo nên ông, giúp hình thành nên nhân cách, con người ông.

Đến năm 2003, khi Khu trục hạm USS Vandegrift là con tàu quân sự đầu tiên của hải quân Mỹ cập cảng Sài Gòn sau chiến tranh Việt Nam, ông được mời lên con tàu. Hôm đó, vì một lý do cá nhân, ông bị con chim cảnh mổ vào mặt gây vết xước không thể dự tiệc trên tàu bèn cử con trai Phạm Xuân Hoàng Ân đi thay mặt. Việc một con tàu hải quân Mỹ cập cảng Sài Gòn lần đầu tiên sau năm 1975 mang tính biểu tượng cực lớn, cho thấy sự trở lại của tàu quân sự Mỹ không phải với tư cách tham chiến mà là một biểu tượng hòa bình, hai quốc gia bắt tay nhau và tiến tới bình thường hóa hoàn toàn.

Phạm Xuân Ẩn được mời lên con tàu trong sự kiện như thế thì ông cảm thấy hãnh diện vô cùng, ông cảm thấy ước mơ của ông đạt được, đó là Việt Nam- Hoa Kỳ đã chính thức không chỉ bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm 1995 mà là bình thường hóa quan hệ quân sự, an ninh, quốc phòng.

Phạm Xuân Ẩn cảm thấy rằng, trong cuộc đời mình ông đã chứng kiến biết bao nhiêu sự kiện trong quan hệ Việt – Mĩ, nhưng có sự kiện như trên, bây giờ ông chết cũng được rồi. Đó chính là nguyện ước của ông. Con người Phạm Xuân Ẩn là chủ nghĩa yêu nước cực kỳ nóng bỏng, nồng ấm và tha thiết.

Người bạn chung thủy

Phạm Xuân Ẩn là một con người đầy nhân cách, đầy tính nhân văn. Ông kết thân bằng hữu được với tất cả mọi người, không nhất thiết là cùng quan điểm chính trị, hay cùng chiến hào, không có ranh giới người cấp cao – thấp. Ông không phân biệt chức danh, vị trí trong nhà nước, chính quyền hay quân đội, cơ quan an ninh. Với Phạm Xuân Ẩn, trong tình bạn không có sự phân biệt sang hèn. Bạn là bạn.

Bất cứ người nào cũng có thể trở thành bạn của Phạm Xuân Ẩn. Bà Ba là liên lạc viên của ông thậm chí còn không biết viết vẫn là bạn rất thân thiết của Phạm Xuân Ẩn. Ông chơi được với hàng tướng tá, sĩ quan cao cấp, những người nắm giữ vị trí cao cấp trong chính quyền Sài Gòn và các quan chức Mỹ. Bạn của Phạm Xuẩn Ẩn có người không biết chữ, có người học vấn cao, người làm nghề báo, những người lĩnh vực khác, những đồng chí cộng sản của ông lẫn những con người tư tưởng thù địch chống lại tư tưởng cộng sản của ông đều có thể là bạn thân thiết. Một khi đã làm bạn của Phạm Xuân Ẩn thì Phạm Xuân Ẩn cực kỳ chân thành.

Nếu Phạm Xuân Ẩn không nói cho bạn biết điều gì thì đó chắc chắn là vì thông tin ấy không cần thiết phải nói, nhưng đã nói với bạn là phải thật, phải chân thành và chung thủy. Ông đã giữ được tinh thần ấy trong suốt cả mấy chục năm làm việc với tư cách là nhà tình báo hay nhà báo của tờ Time, Life Magazine, của hãng Reuters.

Phạm Xuân Ẩn cho rằng, tình bạn là phải chung thủy, phải chân thành, không có sự phân biệt ranh giới và đẳng cấp, không có phân biệt hệ tư tưởng. Ở phía cách mạng những người bạn rất thân thiết của ông là người chỉ huy trực tiếp cấp cao của ông là Tư Cang, người liên lạc cho ông là bà Ba dù không biết chữ.

Về phía đối phương, ông cũng là bạn của rất nhiều nhân vật trong chính quyền Sài Gòn. Câu chuyện Phạm Xuân Ẩn cứu bác sĩ Trần Kim Tuyến cho thấy ông sống rất chân thành và rất nhân văn với bạn.

Trần Kim Tuyến, một trùm mật vụ khét tiếng chống cộng của chính quyền Sài Gòn, nhưng lại là bạn của Phạm Xuân Ẩn theo nhiều nghĩa. Ông Tuyến từng giúp Phạm Xuân Ẩn sau khi ông Ẩn học xong nghề báo từ Mỹ trở về. Trần Kim Tuyến đã bố trí công ăn việc làm và giúp đỡ nhiều cho ông Ẩn trong công việc.

Trần Kim Tuyến là người được Pháp đào tạo cho nên giỏi tiếng Pháp chứ không giỏi tiếng Anh. Khi Mỹ triển khai các chiến lược quân sự ở miền Nam Việt Nam, lúc đó Trần Kim Tuyến là trùm mật vụ và có rất nhiều tài liệu bằng tiếng Anh, nên Trần Kim Tuyến và các quan chức, sĩ quan cao cấp khác của Chính quyền Sài Gòn thường hay nhờ Phạm Xuân Ẩn đọc hộ, và tóm tắt lại. Nhờ đó Phạm Xuân Ẩn lấy được biết bao nhiêu tài liệu vô cùng quý giá mà không cần phải mở trộm két sắt của đối phương.

Một trong những tài liệu đó là tài liệu về chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ ở Việt Nam. Đầu những năm 1960, khi Mỹ đưa chiến tranh đặc biệt vào Nam Việt Nam, các nhà lãnh đạo ở Hà Nội bối rối tìm cách đối phó mà không hiểu gì về chiến tranh đặc biệt. Trung ương đã cử hai đoàn đại biểu quân sự sang Moskva và Bắc Kinh để hỏi bạn xem biết gì về chiến tranh đặc biệt không. Nhưng cả hai đoàn đều trở về với hai bàn tay trắng. Phạm Xuân Ẩn đã lấy được tài liệu về chiến tranh đặc biệt của Mỹ theo cách ấy và nhờ đó quân giải phóng tổ chức đánh thắng trận Ấp Bắc, làm phá sản chiến tranh đặc biệt của Mỹ ở Miền Nam.

Vào những ngày cuối của chế độ Sài Gòn, Trần Kim Tuyến bị kẹt lại vì nhiều lí do, trong đó có lí do ông ở lại để dàn xếp cho những người bạn của ông, những người mà ông chịu ơn, đi di tản. Vào phút chót chỉ còn một chuyến bay cuối cùng ở trụ sở CIA tại Sài Gòn.

Lúc đó, Phạm Xuân Ẩn cũng không biết kế hoạch di tản của Mỹ nên giúp Trần Kim Tuyến bằng cách lái xe hơi chở ông Tuyến đến tòa nhà Sứ quán Mỹ. Khi đến nơi thì không còn chuyến bay nào nữa. Do Phạm Xuân Ẩn được một số nhà báo nước ngoài chỉ cho biết, còn một máy bay cuối cùng để rời miền Nam Việt Nam ở trụ sở của CIA nên Phạm Xuân Ẩn lại lái xe chở Trần Kim Tuyến đến đó.

Đến nơi thì cánh cửa của tòa nhà cũng bắt đầu sập xuống. Phạm Xuân Ẩn đã cố gồng vai lên giữ cánh cửa và bằng mọi cách đẩy Trần Kim Tuyến kịp trườn mình qua cánh cửa chui vào. Hai người chỉ còn kịp chào nhau nhớ giữ liên lạc và Trần Kim Tuyến đã nói: “Phạm Xuân Ẩn, tôi không bao giờ quên ơn của anh”.

Vì hành động cứu Trần Kim Tuyến, một trùm mật vụ khét tiếng mà sau này Phạm Xuân Ẩn chịu rất nhiều rắc rối và chỉ trích từ các đồng chí của ông ở Hà Nội.

Khi trả lời phỏng vấn của Giáo sư Larry Berman, Phạm Xuân Ẩn đã giải thích vì sao ông cứu Trần Kim Tuyến.

“Sở dĩ tôi cứu Trần Kim Tuyến bởi vì tôi với ông ấy là bạn. Trần Kim Tuyến có thời bị thất sủng, theo đề nghị của tôi, Trần Kim Tuyến đã quyết định phóng thích khá nhiều tù chính trị, những đồng chí, đồng đội của tôi đã bị chế độ Sài Gòn cầm tù. Còn một điều nữa, khi Trần Kim Tuyến ra đi, vợ con ông ấy đã chạy trước sang Singapore. Vợ ông Tuyến là người Pháp, lúc đó đang mang bầu. Tôi đã từng là người cha, người chồng, nên hiểu tình cảnh của một đứa trẻ ra đời mà không biết mặt cha thì đau đớn biết chừng nào. Nếu Trần Kim Tuyến ở lại không thực hiện được cuộc di tản đó thì chắc chắn bị cầm tù và thậm chí chịu mức hình phạt cao nhất. Tôi không muốn cảnh đó xảy ra đối với một người bạn của mình”.

Phạm Xuân Ẩn đã kể lại cho Giáo sư Larry Berman rằng trong chuyến bay di tản cuối cùng đó, Bộ trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn đã ngồi lên trước và thấy Trần Kim Tuyến là người cuối cùng chạy theo xách va li nhỏ, đã chìa tay kéo Trần Kim Tuyến lên. Trước đó, hai ông này cực kỳ ghét nhau và trong chuyến bay hai người ngồi cạnh nhau nhưng không ai nói với ai câu nào.

Sau mỗi cuộc phỏng vấn với Phạm Xuân Ẩn, Giáo sư Larry Berman tìm gặp và hỏi tất cả những người bạn của Phạm Xuân Ẩn, rằng Phạm Xuân Ẩn là điệp viên ở phía bên kia đấy, bạn có biết điều đó không và nghĩ như thế nào? Tất cả các câu trả lời, kể cả của Trần Kim Tuyến, nói chung đều là không biết nhưng không ghét bởi vì Phạm Xuân Ẩn là một người bạn tốt.

Sau này, khi Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Raymond Burghardt trước khi kết thúc nhiệm kì của mình xin được ghé qua nhà Phạm Xuân Ẩn để chào tạm biệt trước khi về Mỹ. Tất cả những người mà ông Phạm Xuân Ẩn đã có liên hệ đều yêu mến kính trọng ông vì ông không bao giờ phản bội họ, lừa dối họ, chỉ có những điều ông không nói ra thôi. Họ đều hiểu và trân trọng tất cả những gì mà Phạm Xuân Ẩn đã làm vì đất nước Việt Nam của ông.

Theo VIETNAMNET
0

Thứ Hai, 27 tháng 4, 2020

Những hình ảnh lịch sử về chiến dịch Hồ Chí Minh

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử – chiến dịch quyết chiến, chiến lược trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 – là mốc son chói lọi đánh dấu cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi.


Bộ đội lên máy bay vận tải vào miền Nam tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn (tháng 4/1975). Ảnh: TTXVN.



Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh tại căn cứ Tà Thiết – Lộc Ninh (tháng 4/1975). Ảnh: TTXVN.


Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị quyết định đặt tên cho Chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định là Chiến dịch Hồ Chí Minh với phương châm “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”. Trong ảnh: Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các đồng chí trong Quân ủy Trung ương duyệt phương án tác chiến Chiến dịch Hồ Chí Minh (Hà Nội, 4/1975). Ảnh: TTXVN.


Đứng trước thời cơ chiến lược lớn với điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị, tháng 10/1974, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp thảo luận kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Ảnh: Tư liệu TTXVN.


Quân Giải phóng chuẩn bị lực lượng trước giờ tổng công kích vào Sài Gòn – Gia Định với tinh thần “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” (26/4/1975). Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Xe tăng của Quân đoàn 1 vượt sông, chuẩn bị tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, ngày 2/4/1975. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Lực lượng thọc sâu của Quân đoàn 1 vượt đường 16 tiến vào giải phóng Sài Gòn. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Sư đoàn 312, Quân đoàn 1 đánh chiếm sân bay Ông Lĩnh – Bình Chuẩn, ngày 27/4/1975. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Ngày 9/4/1975, các đơn vị bộ binh và xe tăng thần tốc tiến về giải phóng Xuân Lộc, “cánh cửa thép” – căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch bảo vệ Sài Gòn từ phía Đông Bắc. Ngày 21/4, quân địch ở Xuân Lộc tháo chạy, cửa ngõ vào Sài Gòn từ hướng Đông Bắc đã được mở. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Lực lượng tăng-thiết giáp của cánh quân phía Đông Bắc quân giải phóng vượt xa lộ Biên Hòa, phát triển đánh thẳng về Sài Gòn sau khi tấn công tiêu diệt tập đoàn phòng ngự Biên Hòa. Ảnh: Vũ Tạo/TTXVN.


Trên đường tiến về Sài Gòn, quân ta tiêu diệt nhiều xe tăng, xe bọc thép của địch. Ảnh: Hoàng Thiểm/TTXVN.


Ngày 9/4/1975, quân ta tiến công thị trấn Xuân Lộc, căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch bảo vệ Sài Gòn từ phía Đông Bắc. Ngày 21/4, quân địch ở Xuân Lộc tháo chạy, cửa ngõ vào Sài Gòn từ hướng Đông Bắc đã được mở. Ngay khi mất Xuân Lộc, Tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Ảnh: TTXVN.


Lực lượng xe tăng và bộ binh Sư đoàn 320 đánh chiếm căn cứ Đồng Dù (Củ Chi), sáng 29/4/1975, mở cánh cửa thép Tây Bắc Sài Gòn để quân ta thọc sâu đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu Ngụy quyền Sài Gòn. Ảnh: Lê Trung Hưng/TTXVN.


Bộ đội Sư đoàn 320A (Quân đoàn 3) đánh chiếm căn cứ Đồng Dù ngày 29/4/1975. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Sau 4 ngày đêm chiến đấu, đến sáng 30/4/1975, các đơn vị của Sư đoàn 304 đã chính thức tiêu diệt toàn bộ cứ điểm căn cứ Nước Trong (Long Thành, Đồng Nai) của địch, mở toang “cửa ngõ” cho lực lượng thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu trong nội thành Sài Gòn. Đây cũng là một trong các trận đánh khốc liệt nhất của quân ta trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Phi đội Quyết thắng tại sân bay Thành Sơn (Phan Rang) chiều 28/4/1975 sau khi tấn công sân bay Tân Sơn Nhất. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Sư đoàn 5 chặn đánh địch trên Quốc lộ 4 Bến Lức – Long An, mở đường cho quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn, ngày 29/4/1975. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Xe tăng của Lữ đoàn tăng – thiết giáp 203, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2 tiến vào Dinh Độc Lập, trưa 30/4/1975. Ảnh: Trần Mai Hưởng/TTXVN.


Cờ giải phóng tung bay trên sân bay Tân Sơn Nhất, ngày 30/4/1975. Ảnh: Quang Thành/TTXVN.


Xe tăng quân giải phóng chiếm phủ Tổng thống ngụy, trưa 30/4/1975. Ảnh: Quang Thành/TTXVN.


Xe tăng và bộ binh quân giải phóng chiếm phủ Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn, trưa 30/4/1975. Ảnh: Mai Hưởng/TTXVN.


Trung úy Bùi Quang Thận, Đại đội trưởng xe tăng 4 (cầm cờ, phía trước) cùng 3 chiến sĩ của Lữ đoàn Tăng – Thiết giáp 203, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2 tiến vào cắm cờ trên nóc Phủ Tổng thống Ngụy quyền Sài Gòn, trưa 30/4/1975. Ảnh: Vũ Tạo/TTXVN.


Tổng thống Ngụy Dương Văn Minh cùng nội các ra trước Đài Phát thanh Sài Gòn tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, kết thúc chiến tranh Việt Nam, trưa 30/4/1975. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Nhân dân Sài Gòn đổ ra đường đón chào quân giải phóng chiếm phủ Tổng thống ngụy, trưa 30/4/1975. ẢẢnh: Tư liệu/TTXVN.


Nhân dân Sài Gòn ra đường đón chào quân Giải phóng, ngày 30/4/1975. Ảnh: Lâm Hồng Long/TTXVN.


Người Mỹ rời khỏi Việt Nam bằng máy bay trực thăng trên nóc một tòa nhà cách sứ quán Mỹ ở Sài Gòn 500m, ngày 29/4/1975. ẢẢnh: Tư liệu/TTXVN.

Trước sức tiến công mạnh mẽ của quân Giải phóng và nguy cơ thất bại hiển hiện, Mỹ tiến hành chiến dịch di tản người Mỹ và những người Việt có liên hệ bằng trực thăng khỏi Sài Gòn (chiến dịch Gió lốc – Frequent Wind), bắt đầu từ sáng 29/4 và chấm dứt vào sáng sớm ngày 30/4/1975. Trong vòng gần 20 tiếng đồng hồ, đã có hơn 7.800 người được di tản khỏi Sài Gòn và cuộc di tản này đã trở thành một thảm họa đen trong lịch sử, một hình ảnh về sự thất bại toàn diện của Mỹ trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Ảnh: Tư liệu TTXVN.


Lực lượng xe tăng Sư đoàn 10 (Quân đoàn 3) được nữ chiến sĩ biệt động Nguyễn Trung Kiên (Cao Thị Nhíp) dẫn đường, đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, ngày 30/4/1975. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Cờ giải phóng tung bay trên sân bay Tân Sơn Nhất, ngày 30/4/1975. Ảnh: Quang Thành/TTXVN.


Khoảnh khắc gặp lại mẹ của anh Lê Văn Thức, một trong 36 tử tù Côn Đảo trong ngày trở về đất liền, sáng 4/5/1975 tại Vũng Tàu. Ảnh: Lâm Hồng Long/TTXVN.


Nhân dân thành phố Sài Gòn mít tinh chào mừng Ủy ban Quân quản thành phố ra mắt, ngày 7/5/1975. Ảnh: Minh Lộc/TTXVN.


Sáng 7/5/1975, hơn 50 vạn nhân dân thành phố Sài Gòn – Gia Định tổ chức mít tinh mừng thành phố hoàn toàn giải phóng và hoan nghênh Ủy ban quân quản thành phố ra mắt. Trong ảnh: Đoàn Chủ tịch cuộc mít tinh mừng Ủy ban Quân quản thành phố ra mắt 7/5/1975. Ảnh: Văn Bảo/TTXVN.

Sáng 15/5/1975, hàng triệu nhân dân Sài Gòn – Gia Định đổ về quảng trường trước trụ sở Ủy ban quân quản thành phố để dự Lễ mừng chiến thắng. Chủ tịch Tôn Đức Thắng cùng nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ, MTTQ Việt Nam tham dự buổi lễ trọng đại này. Ảnh: TTXVN.


áng 13/5/1975, các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục và quân, dân miền Nam ra sân bay Tân Sơn Nhất đón Chủ tịch Tôn Đức Thắng dẫn đầu Đoàn đại biểu BCHTƯ Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vào dự Lễ mừng chiến thắng tại thành phố Sài Gòn. Trong ảnh: Đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng bộ miền Nam đón Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại sân bay Tân Sơn Nhất. Ảnh: Văn Bảo/TTXVN.

Theo Vietnamplus
0